Dẫn vào thánh lễ
Thiên Chúa vốn là Đấng ẩn mình trong vạn vật và trong mọi người. Nhưng đâu ai có thể ngờ, một hài nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ giữa hang bò lừa lại là Đấng Cao Cả đã nhập thể làm người vì yêu thương nhân loại khốn cùng. Mắt thường làm sao nhận biết được Thiên Chúa như thế?!
Hôm nay đây cũng vậy. Đấng Cao Cả ấy, Đấng vô cùng nhân ái ấy vẫn đang ẩn mình đâu đây trong cuộc sống rất thường nhật của chúng ta. Chỉ những ai có trái tim biết thương xót, nhạy bén với nỗi đau của nhân loại và có lòng khao khát Chân, Thiện, Mỹ mới nhận thấy sự hiện hữu của Ngài mà thôi.
Có những dấu chỉ trong cuộc sống giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa. Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên những dấu chỉ dễ thương để giúp ai đó nhận ra tình yêu cao cả mà Chúa đã dành cho thế giới này.
Bước vào Thánh Lễ mừng Chúa Hiển Linh hôm nay, với lòng biết ơn, xin Chúa mở mắt đức tin của chúng ta để thấy Chúa và giúp người khác thấy Ngài vẫn hiện diện trong đời sống của mỗi người.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mạc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
🌸 Bài đọc 1 (Is 60,1-6)
Vinh quang của Đức Chúa chiếu toả trên ngươi.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a
1Đứng lên, bừng sáng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi,
vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa
như bình minh chiếu toả trên ngươi.
2Kìa bóng tối bao trùm mặt đất,
và mây mù phủ lấp chư dân ;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.
3Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
4Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi :
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông.
5Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,
lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng,
vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.
6Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha :
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.
🌸 Đáp ca Tv 71,1-2.7-8.10-11.12-13 (Đ. x. c.11)
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
1Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
7Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
8Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
10Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
11Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
12Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
13chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.
Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
🌸 Bài đọc 2 (Ep 3,2-3a.5-6)
Nay mầu nhiệm được mặc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô
2 Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3a Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là : trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
Tung hô Tin Mừng Mt 2,2
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Ha-lê-lui-a.
🌸 Tin Mừng (Mt 2,1-12)
Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu
1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi : “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời : “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng : 6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng : “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Lời nguyện giáo dân
Chủ tế: Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người nhờ Đức Giêsu Kitô, và đã dùng những dấu chỉ hữu hình để hướng dẫn những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Chúng ta hãy cảm tạ Người và dâng lời cầu xin:
- “Các nhà đạo sĩ đã vượt qua chặng đường xa xôi tìm gặp cho được Hài Nhi Giêsu”. Xin cho các Linh Mục – Tu sĩ được ơn trung thành, yêu mến và can đảm, hăng say không mệt mỏi cho sứ vụ mà Chúa giao phó, hầu dân Chúa khắp nơi luôn được ban ơn tiếp sức, nhờ đó có thể vững vàng tiến bước trên con đường sống đạo và làm chứng cho Tin Mừng. Chúng con cầu xin Chúa.
Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con - “Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai”. Xin cho những người chưa biết Chúa, những người khước từ và tìm mọi cách chống đối đạo Công giáo, được sớm thức tỉnh để nhận ra ánh sáng chân lý và tình thương bao la của Ngài. Chúng con cầu xin Chúa.
- “Đất đá thì sống cuộc đời chật hẹp tăm tối, nhưng những vì sao thì sống thanh thoát, vừa thi đua tỏa sáng, vừa tôn trọng sự sáng của nhau”. Xin cho mỗi người Kitô hữu có một tâm hồn cao thượng, luôn nghĩ tốt-nói tốt cho nhau, để trở nên những ngôi sao đức tin tỏa chiếu, hầu những người chung quanh nhìn thấy và muốn gặp gỡ Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
- Lễ vật làm Chúa hài lòng nhất chính là những gì mà chúng ta trao tặng cho nhau. Xin cho mỗi người chúng ta biết quảng đại dâng lên Chúa những hy sinh hằng ngày: là chăm chỉ làm tốt các công việc đời thường, biết tiêu xài tiết kiệm, và đỡ đần gánh nặng cho gia đình, để của lễ tấm lòng của chúng ta luôn được Chúa thương đón nhận. Chúng con cầu xin Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin đoái nhìn lễ vật Hội Thánh Chúa tiến dâng. Đây không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng là bánh rượu, tượng trưng cho Đức Giêsu Kitô, Đấng tự hiến tế và trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng con. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Kinh tiền tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì hôm nay Chúa đã mặc khải chính mầu nhiệm cứu độ chúng con để soi sáng muôn dân, vì khi Người xuất hiện trong bản tính phải chết của chúng con, Chúa đã dùng vinh quang mới bất diệt của Người mà phục hồi chúng con.
Vì thế cùng với các Thiên thần và tổng lãnh thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con tham dự vào bí tích Thánh Thể, xin thương ban ánh sáng bởi trời, hướng dẫn chúng con mọi nơi, mọi lúc, để từ đây chúng con biết chiêm ngưỡng và đón nhận bí tích này với niềm tin sâu sắc và lòng mến thiết tha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
🌸 Gợi ý suy niệm
Ơn Cứu Độ và Hành Trình Đức Tin
Hằng năm sau dịp Lễ Chúa Giáng Sinh, Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về tính phổ quát của ơn Cứu độ và hành trình đức tin của mình ngang qua Phụng Vụ Chúa Nhật Chúa Hiển Linh.
Trước hết, mặc dù ơn Cứu độ của Chúa được xuất phát từ một dân tộc được chọn, nhưng khi Chúa Giê-su được sinh ra và khi Người tỏ mình cho ba vị đạo sĩ đến từ Phương Đông xa xôi, Chúa muốn chúng ta nhận ra rằng: ơn Cứu độ mà Chúa Giê-su mang lại không bị gò bó nơi bất cứ vùng miền hay hội nhóm nào. Đúng hơn ơn Cứu độ đó có tính phổ quát và được ban cho bất kỳ ai có thiện tâm khao khát đi tìm Chân Lý. Ơn Cứu độ đó chính là gặp gỡ Con Thiên Chúa làm người và nhận Ngài là Vua, là cứu cánh của đời mình.
Kể từ sau Thánh Công Đồng Vatican II, Giáo hội không còn khẳng định “ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”, nghĩa là những người ngoài cơ cấu hữu hình của Giáo hội sẽ không được cứu rỗi. Giáo hội đã đi một bước tiến xa khi nhìn nhận rằng bất cứ ai “thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ân sủng, họ cố gắng hành động để chu toàn thánh ý Thiên Chúa được biểu bộ qua sự hướng dẫn của lương tâm, thì vẫn có thể đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu” (Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội – LG – số 16). Đây chính là điểm nhấn của sự hiệp nhất đại kết. Trong bối cảnh đối thoại liên tôn cũng như trong bối cảnh ngày càng nhiều các gia đình đa tôn giáo, chúng ta được mời gọi để ý thức rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, luôn luôn có ước muốn cứu độ tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ tạo vật nào. Chúa Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại. Người đã vâng phục cho đến chết treo trên thập giá để thực hiện ý định cứu độ của Thiên Chúa.
Mặc dù có nhiều người (theo thể chế pháp lý) vẫn chưa thuộc về Giáo hội mà Chúa Giê-su thiết lập, nhưng khi bước theo ánh sáng của một lương tâm ngay thẳng, họ thuộc về Dân Thiên Chúa, thuộc về Giáo hội cách nào đó xét trên phương diện Giáo hội là Nhiệm Thể của Chúa Ki-tô. Mặc dù họ được ơn cứu độ theo ý muốn nhiệm mầu của Thiên Chúa nhưng họ vẫn được mời gọi để gặp gỡ chính Đấng Thiên Chúa làm người. Nhờ đó, đời sống của họ sẽ được đổi mới như ba vị đạo sĩ đã đi đường khác mà về sau khi gặp được Hài Nhi Giê-su.
Đi tìm Chân Lý và sống theo Sự Thật là một hành trình đức tin đầy gian lao thử thách. Khởi đầu cho hành trình đức tin là nhận ra “ánh sao lạ” trong cuộc sống tự nhiên, tượng trưng cho ơn thánh xuất phát từ Thiên Chúa. Khi họ tiếp nhận ánh sao ấy thì nó trở nên ánh sáng chỉ đường cho họ. Tuy nhiên trên hành trình ấy, “ánh sao lạ” đã đôi lần biến mất, khiến đời sống của chúng ta chao đảo mất phương hướng. Khi ấy, sự kiên nhẫn và đối thoại là phương cách giúp chúng ta tìm thấy lại được ánh sáng đã mất.
Không ít lần chúng ta tự hỏi Thiên Chúa đang ở đâu, sự bình an của Chúa đang ở nơi nào khi mà cuộc sống này có quá nhiều đau khổ lầm than. Thế nhưng chúng ta có bao giờ tự hỏi chúng ta có thiện tâm tìm kiếm Chúa không (Bình an dưới thế cho người thiện tâm), có thiện tâm đối với những những người xung quanh không, có kiên nhẫn và có thiện tâm đối thoại không. Những thử thách trong hành trình đức tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người nghiệm sâu hơn về đức tin, về Chân lý và Sự thật. Đức tin không thử thách là đức tin dễ dàng; đức tin thất bại trước thử thách là đức tin dễ dãi; đức tin chấp nhận thử thách mới là đức tin đích thực dẫu cho nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
Lễ Chúa Hiển Linh còn có một tên gọi khác là Lễ Ba Vua. Ba ông lên đường, bỏ lại sau lưng cuộc sống cũ để cùng nhau tìm kiếm một vị VUA mới sinh. Hình ảnh của ba người này gợi nhắc chúng ta rằng hành trình đức tin của chúng ta không bao giờ được thực hiện cách cá nhân riêng lẻ. Đúng hơn, đức tin được sống trong sự liên đới và đồng hành. Thực tế trong hành trình đức tin của mình, chúng ta cần có những người bạn đồng hành để chia sẻ và giúp nhau vượt qua những thử thách của cuộc sống.
Có nhiều khi chúng ta cảm thấy rằng mình chẳng thích các giáo điều này hay những luật lệ kia, nhưng dễ dàng bị chinh phục bởi gương sáng đức tin của một thánh nhân nào đó. Trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều gương sáng về đức tin. Ước mong ơn Cứu độ phổ phát của Thiên Chúa được trở nên dấu chỉ hữu hình nơi cuộc sống đức tin của mỗi người ki-tô hữu chúng ta.
🌸 Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
🌸 Gợi ý mục vụ – Ban MVPT
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông,
nên chúng tôi đến bái lạy Người”
(Mt 2, 2)
*****
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Isaia 60,1-6 được xem là lời an ủi dành cho thành Giêrusalem. Tiếp nối mạch ý tưởng của “sách an ủi” trong Isaia Đệ Nhị (40-55), tác giả muốn củng cố niềm tin và hy vọng cho Giêrusalem sau bao nỗi khó khăn nhục nhằn của cuộc lưu đày. Rồi đây, Giêrusalem sẽ được chiếu sáng, được gặp lại con cái mình và ngoại bang sẽ đến để tăng cường lực lượng, của cải, dân số.
Trước hết, thời kỳ lưu đày là một khoảng thời gian đau buồn trong lịch sử Israel trong đó dân Chúa trở thành đối tượng bị nhạo cười, chế diễu (Tv 80,7). Cuộc sống của dân Chúa trong thời gian đó không khác gì đi trong đêm tối. Giêrusalem không còn là niềm tự hào mà là sự ô nhục của dân Israel. Trong bối cảnh đó, Isaia khơi lên niềm tin và hy vọng bằng lời mời gọi hãy đứng lên mà toả sáng, vì chính Thiên Chúa là “bình minh chiếu tỏa” trên Giêrusalem. Ánh huy hoàng của Giêrusalem không do nó tự tạo nên, không đến từ những chiến công hiển hách mà đến từ chính Đức Chúa.
Hơn nữa, nhờ ánh sáng của Thiên Chúa chiếu toả trên Giêrusalem mà các dân nước xung quanh sẽ nhận ra và kéo đến. Ánh sáng không chỉ soi sáng giới hạn cho dân cư Giêrusalem mà thôi, nhưng còn là thứ ánh sáng đủ mạnh, đủ sáng, đủ hấp dẫn để thu hút chư dân. Ánh sáng cũng soi đường để cho con cái Israel tản lạc từ phương xa được trở về, trở về trong niềm vui sướng và tự hào (Is 60,4b). Như vậy, ánh sáng của Thiên Chúa tạo nên điểm hội tụ và gặp gỡ, không chỉ giữa con cái Israel với nhau mà thôi, mà còn mở rộng ra để quy tụ cả dân ngoại.
Sau cùng, nhờ ánh sáng của Thiên Chúa, “mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi” (Is 60, 5). Ánh sáng của Thiên Chúa làm cho sức hút của Giêrusalem trở nên mãnh liệt, không những lôi kéo muôn dân kéo đến mà còn mang theo cả của cải. Tất cả đều do bàn tay Thiên Chúa định liệu và sắp xếp (x. Is 66, 12).
Nhờ “ánh sáng” của Thiên Chúa mà “muôn dân” từ các địa danh khác nhau như “Mađian, Êpha và Saba” mang theo “vàng với trầm hương” đến Giêrusalem; qua hình ảnh này, ngôn sứ Isaia như muốn cho thấy tính chất đại đồng của ơn cứu độ. Rồi đây những điều này sẽ được “ứng nghiệm” trong bài trình thuật của thánh Mátthêu về ba nhà chiêm tinh đến bái lạy Hài Nhi Giêsu.
2. Bài đọc 2
Một trong những câu hỏi mà các Kitô hữu gốc Do thái thời Giáo hội sơ khai đặt ra là liệu dân ngoại có được cứu độ và được cứu độ nghĩa là thế nào. Thánh Phaolô, vị tông đồ của dân ngoại, trả lời rõ ràng trong thư Êphêsô, thư gởi cho các Kitô hữu gốc dân ngoại, rằng: đó là kế hoạch của Thiên Chúa, đã có từ trước muôn đời, loài người không hề được biết, nhưng nay Thiên Chúa đã mạc khải ra (Ep 1,9-10; 3,3-10). Mầu nhiệm này được thực hiện nơi Đức Kitô và được công bố trong Hội thánh nhờ các Tông Đồ, cách riêng Phaolô. Mầu nhiệm đó là gì?
Tác giả thư Hípri khẳng định rằng Thiên Chúa đã từng mạc khải cách tiệm tiến qua các ngôn sứ trong Cựu ước, nhưng đến thời sau hết này Ngài mạc khải cách đầy đủ và trọn vẹn qua Thánh Tử (Hr 1,1-2). “Trong Đức Kitô và nhờ Tin mừng” (Ep 3,6), Thiên Chúa mạc khải cho con người kế hoạch cứu độ cách tròn đầy, trong đó có chỗ cho cả dân ngoại. Đoạn thư Êphêsô nêu lên ba điểm quan trọng của mầu nhiệm này:
– Một là, trong Đức Kitô và nhờ Tin mừng, dân ngoại được trở nên những người đồng thừa kế. Thật vậy, dân ngoại cũng xứng đáng được nghe Tin mừng và trong Đức Kitô, những ai tin đều được trở nên con Thiên Chúa (Ga 1,12). Dân Do thái tự hào mình là con cái Thiên Chúa, nhưng tư cách làm con đó giờ đã được mở rộng ra cho dân ngoại nữa. Một khi tin vào Đức Kitô, dân ngoại cũng trở nên con Thiên Chúa và vì là con, họ được hưởng trọn vẹn quyền lợi của những người con, đó là được trở nên những người đồng thừa kế.
– Hai là, trong Đức Kitô và nhờ tin vào Tin mừng được rao giảng cho cả dân ngoại, họ được trở nên thành phần của cùng một thân thể. Phaolô khẳng định rằng chính Đức Kitô “đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một… đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2,14-15). Trong Đức Kitô, không còn bất kỳ một sự phân biệt, không còn bất kỳ sự chia cắt nào giữa những người cùng tin vào Đức Kitô; họ đều được liên kết chặt chẽ với Đức Kitô thế nào thì cũng vì thế mà được liên kết với nhau như vậy.
– Ba là, dân ngoại cũng được đồng chia sẻ lời hứa. Nếu như trước kia dân ngoại “không có Đấng Kitô, không được hưởng quyền công dân Israel… xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa” (Ep 2,14), thì nay nhờ tin vào Đức Kitô, họ được chia sẻ những gì Thiên Chúa đã hứa với dân Do thái. Xưa kia con cháu Israel nhận được lời hứa của Thiên Chúa qua tổ phụ Ápraham (x. Gl 3,18.29), thì nay dân mới của Thiên Chúa bao gồm cả dân ngoại cũng được chia sẻ lời hứa ấy qua chính Đức Kitô (Ep 3,6; x. Gl 3,16).
3. Bài Tin mừng
Bài Tin mừng theo thánh Mátthêu vẽ lên cho chúng ta khung cảnh đối nghịch giữa hai nhóm người Do thái và dân ngoại về hành động (ra đi tìm kiếm hay thờ ơ, thụ động) và thái độ (đón nhận hay chối từ).
Bài Tin mừng đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng Thiên Chúa, qua ánh sao của mầu nhiệm Giáng Sinh, tỏ mình ra không chỉ cho dân Do thái mà còn cho cả dân ngoại, nhưng phản ứng của mỗi nhóm lại khác nhau. Ba nhà chiêm tinh, đại diện cho nhóm dân ngoại, khi thấy ánh sao đã nhanh chóng chủ động lên đường tìm kiếm. Họ dùng những phương tiện và khả năng mình có để tìm cho ra nguồn gốc của ánh sao trời.
Trái lại, sự “bối rối” của vua Hêrôđê, “bối rối” và sự “xôn xao” của cả thành Giêrusalem là biểu hiện sự ngạc nhiên; ngạc nhiên của sự thờ ơ, thụ động. Họ thông thạo Kinh thánh, biết chính xác nơi sinh của “Đấng Kitô” là tại Bêlem, nhưng lại tỏ ra bàng quan; họ không thấy hay vờ như không nhận ra ánh sáng sao trời. Nếu đem so sánh khoảng cách từ Bêlem tới Giêsusalem với quãng đường mà những người “từ phương Đông” phải vượt qua để gặp Hài Nhi Giêsu thì mới thấy khoảng cách lòng người mới là yếu tố quyết định.
Thánh Phaolô đã diễn tả sự thay đổi ngoạn mục này: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2,13); trái lại, những người được xem là “ở gần”, rất gần cả về không gian lẫn thời gian, lại là những người “ở xa”, xa đến nỗi không thể nhận ra ánh sáng sao trời.
Sau nữa, bài Tin mừng còn cho thấy sự đối nghịch về thái độ. Một đàng, các nhà chiêm tinh không tìm kiếm vì tính tò mò, nhưng vì một niềm xác tín về một vị vua mới sinh đáng cho họ tôn thờ. Ngay từ trước lúc lên đường, họ đã chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ lớn lao. Cử chỉ “vui mừng” khi thấy ngôi sao xuất hiện trở lại và thái độ cung kính thờ lạy, dâng những phẩm vật họ mang theo vừa thể hiện thái độ xác tín vừa cho thấy lòng kính tôn thần phục của họ đối với Hài Nhi Giêsu.
Đàng khác, hành động “bí mật”, “hỏi cặn kẽ” các nhà chiêm tinh và lời hứa “để tôi cũng đến thờ lạy Người” của vua Hêrôđê (Mt 2,7-8) chỉ là chiếc mặt nạ che dấu một âm mưu nham hiểm sẽ sớm bị bóc trần (Mt 2,12). Rõ ràng, ngay từ đầu những người “ở gần” như vua Hêrôđê đã không hề có ý định muốn kiếm tìm hay đón nhận mạc khải của Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giêsu. Họ không đón nhận ánh sáng cũng đồng nghĩa với việc họ đang sống trong tối tăm.
Tác giả Tin mừng thứ tư cũng đã loan báo về sự xuất hiện của ánh sáng: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nhưng đồng thời ông cũng chua chát nhận ra một sự thật phũ phàng về sự chối từ của những người được xem là “người nhà”, những người “ở gần” rằng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Tóm lại, Thiên Chúa, qua việc sinh hạ của Hài Nhi Giêsu, mạc khải ơn cứu độ của Ngài cho mọi người. Đón nhận hay chối từ, tìm kiếm hay thờ ơ, tôn thờ hay tìm cách loại trừ, chấp nhận ánh sáng hay ở lại trong tối tăm là sự lựa chọn của mỗi người. Coi chừng! Những người tưởng mình “ở gần”, có khi lại đang “ở rất xa”, còn những người bị xem là “ở xa” lại biết tìm “lại gần”.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ánh sáng của Thiên Chúa chiếu toả đem lại niềm vui và hy vọng cho Giêrusalem, vì đó là ánh sáng báo hiệu thời kỳ đen tối đã qua; và nhờ ánh sáng đó, muôn dân tuôn đến mà tôn thờ Thiên Chúa của Israel. Tôi có nhận ra ánh sáng của Chúa trong cuộc đời mình? Tôi có để cho ánh sáng của Chúa lan tỏa đến những người xung quanh, nhất là những người chưa nhận biết Chúa, bằng chính gương sáng đời mình khi tôi biết đem lại niềm vui và hy vọng cho người khác?
2/ Thánh Phaolô xác quyết rằng “trong Đức Kitô và nhờ Tin mừng”, dân ngoại cũng được chia sẻ lời hứa cứu độ với dân Israel, hợp thành một thân thể. Ơn cứu độ không dành riêng cho bất cứ ai mà là cho mọi người nhờ nghe rao giảng Tin mừng mà tin vào Đức Kitô. Tôi có sẵn sàng rao truyền Tin mừng mà tôi đã lãnh nhận, để những người khác cũng tin vào Đức Kitô và cùng tôi hợp thành dân mới là Hội thánh, có Chúa Kitô là đầu?
3/ Qua bài Tin mừng Mátthêu, Thiên Chúa tỏ mình ra cách rõ ràng cho dân ngoại, để họ cũng tìm tới mà tôn thờ Hài Nhi Giêsu. Họ là những người “ở xa” nhưng đã tìm cách “lại gần” để tôn thờ Con Thiên Chúa Nhập Thể. Mátthêu đồng thời cảnh báo những người “ở gần”, nhưng lòng họ lại “rất xa” Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã từ xa đến gần với con người qua mầu nhiệm Nhập Thể. Lòng tôi đang “ở xa” hay “ở gần” Người? Tôi có tìm cách “đến gần” Người mỗi ngày? Tôi có làm cầu nối giúp cho những người “ở xa” Thiên Chúa “đến gần” Ngài?