Chúa Nhật XIV Thường Niên (B) (7/7)
Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường
Dẫn vào thánh lễ
Hôm nay là Chúa nhật thứ 14 thường niên. Bài đọc I thuật lại việc dân Israel khước từ Lời Chúa nói với họ qua tiên tri Êdêkien. Bài thánh thư cho thấy cuộc đời các tiên tri luôn mang hình thức yếu đuối bất lực trước mắt thế gian, nhưng dưới cái nhìn của đức tin lại là nơi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đang hoạt động. Thái độ khước từ Lời Chúa thể hiện rõ nhất nơi những người trong bài Phúc Âm hôm nay: Mặc dù họ kinh ngạc, thán phục sự khôn ngoan của Ðức Giêsu. Nhưng họ không tin Ngài, vì cho rằng Ngài cũng có một nguồn gốc bình thường như họ.
Vì yêu thương, Thiên Chúa không ngừng ngỏ lời với nhân loại, dù thuận hay nghịch. Hằng ngày Chúa vẫn đòi chúng ta phải có niềm tin trước mọi thử thách trần gian, đừng “vấp phạm vì Người”. Hơn nữa Chúa muốn chúng ta trở nên các tiên tri của Người để giúp anh em đồng bào nhận ra Tin Mừng cứu độ. Chúng ta có sẵn sàng đi vào đường lối của Êdêkien, của Phaolô và của Ðức Kitô không?
Xin cho chúng ta luôn sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và nhiệt tâm đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhờ con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin …
🌸 Bài đọc 1 (Ed 2,2-5)
Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.
Bài trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en
2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Đức Chúa phán với tôi, và làm cho chân tôi đứng vững ; tôi đã nghe tiếng Người phán với tôi. 3 Người phán với tôi : “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta ; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng : ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này.’ 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.”
🌸 Đáp ca Tv 122,1-2a.2bcd.3-4 (Đ. c.2cd)
Đ.Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa,
tới khi Người xót thương chút phận.
1Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa,
Đấng đang ngự trên trời.
2aQuả thực như mắt của gia nhân
hướng nhìn tay ông chủ.
Đ.Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa,
tới khi Người xót thương chút phận.
2bcdNhư mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ,
mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa
là Thiên Chúa chúng ta,
tới khi Người xót thương chút phận.
Đ.Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa,
tới khi Người xót thương chút phận.
3Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương,
bởi chúng con bị khinh miệt ê chề ;
4hồn thật quá ê chề vì hứng chịu
lời nhạo báng của phường tự mãn,
giọng khinh người của bọn kiêu căng.
Đ.Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa,
tới khi Người xót thương chút phận.
🌸 Bài đọc 2 (2 Cr 12,7-10)
Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô
7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi : “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
Tung hô Tin Mừng x. Lc 4, 18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ha-lê-lui-a.
🌸 Tin Mừng (Mc 6,1-6)
Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô
1 Khi ấy, Đức Giê-su trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói : “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì ? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a và là anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó ; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.
Lời nguyện giáo dân
Chủ tế: Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến dạy dỗ chúng ta. Vậy chúng ta hãy đón nhận Lời Chúa và thành khẩn nài xin:
- “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”. Xin cho các linh mục luôn kết hợp những chống đối, lăng nhục, khổ đau của đời sống chứng tá tông đồ với hy lễ Thập giá Chúa Giêsu trong thánh lễ mỗi ngày, để mưu cầu ơn cứu độ cho nhân loại và cho các linh hồn. Chúng con cầu xin Chúa.
Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con. - Hiệp cùng Đức Thánh Cha Phanxicô, xin cho các nhà lãnh đạo trở nên những người can đảm kiến tạo sự đối thoại và tình bằng hữu giữa các nước trong các cuộc xung đột về xã hội, kinh tế và chính trị. Chúng con cầu xin Chúa.
- “Ông này chẳng phải bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Xin cho mỗi người dân, dù là công nhân, nông dân hay thương gia, luôn biết kết hợp công việc lao động vất vả hằng ngày với Đấng hằng sống, để cầu nguyện cho thế giới, cách riêng xây dựng cho đất nước của mình và biến đổi nên gia nghiệp Nước Trời. Chúng con cầu xin Chúa.
- “Người vào giảng trong hội đường”. Xin cho mỗi người công giáo chúng ta luôn nhiệt thành truyền đạt chân lý đức tin qua lời nói cũng như đời sống đạo đức, đặc biệt tuân thủ tốt những điều luật phòng chống bệnh dịch, hầu làm gương sáng cho những người đang cùng sống và cùng làm việc. Chúng con cầu xin Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin Chúa dùng của lễ chúng con dâng tiến để thanh tẩy và hướng dẫn chúng con, cho chúng con ngày càng biết sống chân tình với Chúa. Chúng con cầu xin …
Kinh tiền tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúng con biết rằng: vì vinh quang vô biên của Chúa, Chúa dùng thần tính mà cứu giúp chúng con là những kẻ phải chết. Hơn nữa, Chúa còn dự liệu linh dược để chữa lành bản tính phải chết của chúng con và giải thoát tất cả những ai vì mang bản tính đó mà bị hư mất, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con.
Nhờ Người, đạo binh các Thiên thần thờ lạy uy linh Chúa, muôn đời hoan hỷ trước Tôn Nhan. Xin cho chúng con được đồng thanh với các ngài hân hoan tung hô rằng:
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận hồng ân cao cả, xin cho chúng con được hưởng ơn cứu độ dồi dào và không ngừng chúc tụng tạ ơn Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
🌸 Học hỏi Lời Chúa (Ban MVPT)
SỨ MẠNG NGÔN SỨ
“Bởi đâu ông ta được như thế?” (Mc 6,2)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Ed 2,2-5)
Êdêkiel bị lưu đày sang Babylon vào năm 597 tCN cùng với vị vua cuối cùng vương triều Đavít, Giôgiakhin, và nhiều người trong dân Israel. Bốn năm sau biến cố này, Êdêkiel được Chúa kêu gọi và sai đến với con cái Israel. Và trình thuật kêu gọi Êdêkiel hôm nay được xem như là một đoạn tiêu biểu mô tả về ơn gọi và sứ mạng ngôn sứ.
Dù Êdêkiel xuất thân từ dòng dõi tư tế cao quý trong Israel, nhưng Chúa gọi ông bằng một tên mới là ‘ben-´ädäm’ (con của con người), mà theo truyền thống Do Thái, có nghĩa đơn giản là ‘người’, để nhắc nhở ông về bản tính mỏng dòn và ắt tử trong thân phận bụi đất của một vị ngôn sứ.
Êdêkiel được Chúa kêu gọi không phải để thi hành một sứ mạng xa xăm, hay thực thi những phép mầu kỳ diệu, nhưng là một sứ mạng thiết thực và cụ thể, đó là mang Lời Chúa đến cho con người.
Thật ngạc nhiên khi đối tượng của sứ mạng mà Thiên Chúa muốn nơi Êdêkiel không phải là một con người, một dân tộc ngoan hiền, nhưng là một dân tội lỗi luôn nổi loạn chống lại Đức Chúa.
Và dù cho sứ mạng này có thành công hay không, hay liệu con cái Israel có nghe lời của Đức Chúa, thì Thiên Chúa vẫn thể hiện như một người Cha, luôn ân cần tìm cách hiện diện và ở giữa dân Người, vì Người không bao giờ quên lời minh ước.
2. Bài đọc II (2Cr 12,7-10)
Đoạn thư hôm nay được trích từ phần tự biện hộ của thánh Phaolô trước những lời tố cáo từ một số người ở cộng đoàn Côrintô. Trong phần này, thánh nhân đã liệt kê những gian nan khốn khó phải chịu vì Tin mừng (2Cr 11,22-29) và những kinh nghiệm ngoại thường, những giây phút thân mật với Thiên Chúa mà ngài trải qua.
Đáng ra ngài có thể đã tự hào về những kinh nghiệm tuyệt vời này trước những kẻ chống ngài; thế nhưng ở đây thánh nhân lại bày tỏ sự tự hào ở một khía cạnh đối lập, đó là những yếu đuối, nghịch cảnh, túng thiếu của mình, bởi lẽ Thiên Chúa thường dùng những công cụ thấp hèn để qua đó thể hiện những can thiệp mang tính cứu độ.
Ở đây thánh nhân mô tả thân xác mình “như đã bị một cái dầm đâm vào” (c.7). Điều này có thể ám chỉ đến cơn đau về thể lý, nhưng cũng không loại trừ việc ám chỉ đến cơn đau tinh thần mà những kẻ chống ngài gây ra.
Thánh nhân đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa cho ngài thoát khỏi nỗi khốn khổ này (c.8). Tuy vậy, Thiên Chúa đã không cất khỏi nơi ngài, nhưng lại ban cho ngài sức mạnh khi khẳng định rằng “ơn Ta đủ cho con” (c.9).
Qua đó ta thấy Thiên Chúa thường không cất các ngôn sứ của mình khỏi những yếu đuối hay nghịch cảnh, nhưng Người muốn qua những điều này quyền uy của Người tỏ hiện.
3. Bài Tin Mừng (Mc 6,1-6)
Sau khi rao giảng một thời gian tại Caphácnaum, viếng thăm một số làng mạc tại Galilêa để rao giảng Tin mừng và chữa lành nhiều bệnh tật, Đức Giêsu hôm nay trở về quê hương của mình tại Nadarét.
Thái độ phản ứng của những người đồng hương trước Đức Giêsu được mô tả với hai thái cực đối lập: một mặt, họ ngạc nhiên về những lời lẽ khôn ngoan phát ra từ miệng Đức Giêsu, và thán phục những công việc Người làm; mặt khác, họ bị hành hạ bởi những nghi nan, ngờ vực về Đức Giêsu.
Những người Do Thái được tôi luyện trong đức tin cha ông họ; họ tin vào Thiên Chúa, Đấng đã ký kết giao ước với dân Người và dành để mọi phúc lành của Người cho dòng dõi và con cái Ápraham, nghĩa là những kẻ chỉ thuộc về ‘nhà Israel’.
Với những người Nadarét, Đức Giêsu là một ẩn số không lời đáp. Cũng như họ, Người lớn lên trong một gia đình với nền tảng đạo giáo vững chắc, thuộc dân được tuyển chọn, mà Kinh Thánh với 119 lần gọi là ‘Nhà Israel’. Giờ đây, có vẻ như người này không cảm thấy thoải mái trong ngôi nhà chật hẹp của mình, và cánh cửa ơn cứu độ ‘Nhà Israel’ giờ đây đã được mở cho tất cả mọi người.
Với những lời nói và việc làm của mình, Đức Giêsu đã phá vỡ thế quân bình ổn định của ngôi nhà cũ kỹ, và mời gọi mọi người bước vào một ngôi nhà mới, một gia đình mới, được xây nên bởi các môn đệ và bất cứ ai tin theo Người.
Vấn đề tạo ra sự nghi ngờ nơi những người đồng hương được thể hiện qua hàng loạt câu hỏi, không phải phát xuất từ nội dung của những lời giảng dạy của Đức Giêsu hay những việc tốt đẹp Người làm, nhưng chính là nguồn gốc của chúng: từ Thiên Chúa hay từ ma quỷ? Và họ đi đến một thái độ an toàn: tốt hơn hết là không nên tin vào con người này; và họ chọn cách ở lại trong ngôi nhà cũ kỹ của họ.
Và như thế khó có thể không xảy ra sự tách rời giữa Đức Giêsu với gia đình, bạn bè và những người đồng hương. Đây là số phận chung của các ngôn sứ, khi chẳng có ai trong số họ được kính trọng nơi quê hương mình (c.4).
Thái độ của những người dân thành Nadarét có thể được lặp lại hôm nay. Đức Giêsu xuất hiện ở giữa những người mà họ tự tin biết chắc chắn về Chúa Giêsu; Người mời gọi họ và đưa ra những đề xuất mới. Cũng như cách Ápraham được Chúa mời gọi năm xưa, hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi con người rời bỏ quê hương, xứ sở và mọi thứ dính bén; tuy nhiên, đáp lại lời mời gọi này, trước tiên là thái độ không hiểu, và sau đó là chối từ.
Thái độ cứng lòng tin có thể tạo nên những hệ quả bi kịch như được trình bày ở cuối đoạn, đó là tự đẩy xa ơn cứu độ của Thiên Chúa ra khỏi nơi mình. Dấu chỉ của sự hiện diện Nước Thiên Chúa trong thế giới này sẽ khó được tỏ hiện nơi đâu thiếu vắng niềm tin và thiện chí.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. “Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn”. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ Êdêkiel mang Lời Chúa đến với dân Người trong cảnh lưu đày của tội lỗi. Vậy trong những lúc ‘lưu đày’ của đời mình, tôi có biết lắng nghe và đón nhận ‘lời ngôn sứ’ của Chúa? Hay những lúc ‘lưu đày’của những người anh chị em tôi, tôi có sẵn sàng là những ‘lời ngôn sứ’ ủi an và nâng đỡ cho mọi người?
2. “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: ‘Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.’” Từ kinh nghiệm của thánh Phaolô, tôi có bao giờ cảm thấy “vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” hay “tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô”?
3. “Và họ vấp ngã vì Người”. Đây là thái độ của những người đồng hương Đức Giêsu. Còn tôi, đâu là thái độ của tôi mỗi khi Đức Giêsu đến và đi ngang qua đời mình?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã sai Con Một của Người đến thế gian, để những ai tin vào danh Đức Giêsu Kitô thì được cứu độ. Cộng đoàn chúng ta cùng cảm tạ Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ của Thiên Chúa cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn và mọi thành phần Hội Thánh luôn trung thành tuyên xưng một đức tin duy nhất, và diễn tả niềm tin ấy bằng một đời sống chứng tá.
2. Thế giới hôm nay còn nhiều người chối bỏ và xúc phạm Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa soi lòng mở trí cho họ vượt qua những thành kiến nghi ngại, và ban cho họ quả tim mới cùng một tinh thần mới, để họ nhận biết và đặt trọn niềm tin tưởng vào Người.
3. Thiếu vắng niềm tin là một cản trở đối với ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết siêng năng học hỏi đào sâu giáo lý đức tin, thường xuyên đón nhận các Bí tích, hầu luôn đứng vững trước những thử thách trong cuộc sống.
4. Chúa đã phán cùng Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, luôn ý thức sự bất toàn và giới hạn của bản thân, hầu tích cực cộng tác với ơn Chúa trong việc sống đạo và thực thi công bình bác ái.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa luôn yêu thương và muốn mọi người được cứu độ. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban tặng Thánh Thần, giúp chúng con biết nhiệt thành lắng nghe và thực thi lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
🌸 Gợi ý suy niệm
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.
“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.
Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
🌸 Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)