Generic filters
Exact matches only
Filter by content type
Comments
Attachments

Ý Cầu nguyện: Cầu nguyện Cho tiếng kêu của trái đất (tháng 9)

Chân phước Giacôbê Bonnaud và các bạn tử đạo (2/9)

FacebookTwitterEmailLinePrintFriendly

Các Chân Phước Giacôbê Bonnaud, Linh Mục, và Các Bạn;
Giuse Imbert và Gioan Nicôla Cordier, Linh Mục;
Tôma Sitjar, Linh Mục, và Các Bạn, Tử Đạo
Các Thánh Tử Đạo vì các Kitô Hữu chia rẽ
 Chân phước Giacôbê Bonnaud và 24 anh em tử đạo vào thời cách mạng Pháp. Sau khi Dòng Tên bị giải thể năm 1773, nhiều anh em Giêsu Hữu người Pháp đã trở về quê hương và trở thành linh mục giáo phận.
 Năm 1789, cuộc cách mạng Pháp nổ ra; khởi đầu đây chỉ là cuộc cách mạng chống lại sự bóc lột của tầng lớp quý tộc, nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang chống Công Giáo. Ngày 12.07.1790, chính quyền mới ban hành “Hiến chế Dân sự cho hàng giáo sĩ.” Theo hiến chế này, các giáo sĩ bị buộc phải tuyên thệ trung thành với Giáo Hội Pháp, từ chối hoàn toàn sự lệ thuộc vào Đức Giáo Hoàng. Các giáo sĩ từ chối tuyên thệ đã bị tước quyền công dân và phải lẩn trốn trước lệnh bắt bớ.
 Khi cuộc xung đột nổ ra ngày 10.04.1792, nhóm bài Công Giáo đã chiếm thế thượng phong và ra lệnh bắt giam tất cả các giáo sĩ vào trong các chủng viện và đan viện. Cha Giacôbê Bonnaud cùng với 13 linh mục (nguyên Giêsu Hữu) đã bị giam tại đan viện Cát Minh ở Paris cùng với đông đảo các linh mục khác. Ngày 02.09.1792, một nhóm quân lính theo chủ nghĩa quốc gia quá khích đã xông vào đan viện và sát hại tất cả các linh mục.
 Ngay hôm sau, 7 linh mục khác (nguyên Giêsu Hữu) cũng bị sát hại tại chủng viện thánh Firmin. Cũng thời gian này, 2 linh mục (nguyên Giêsu Hữu) là Giuse Imbert và Gioan Nicôla Cordier cũng bị sát hại trên một chiếc thuyền giam các linh mục. Ngoài ra, hai cha khác là Alexander Lanfant và Phanxicô Le Livec cũng bị sát hại trong khoảng thời gian đó.
 Khi Dòng Tên được tái lập năm 1814, các cha này được kể vào trong số những Giêsu Hữu chịu tử đạo vì sự hiệp nhất của Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên phong chân phước cha Giacôbê Bonnaud và 22 anh em khác ngày 17.10.1926. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước hai cha Giuse Imbert và Gioan Nicôla Cordier ngày 01.10.1995.
Chân phước Tôma Sitjar và 10 bạn Giêsu Hữu
 Tại Tây Ban Nha, trong cuộc nội chiến vào các năm 1936- 1939, phe Cộng Hoà do những người vô thần cầm đầu đã sát hại 13 giám mục, 4172 linh mục và chủng sinh giáo phận, 2364 linh mục và tu sĩ nam, 283 nữ tu và rất nhiều giáo dân. Trong số đó có cha Tôma Sitjar cùng 6 linh mục và 4 thầy Dòng Tên đã được phúc tử đạo.
 Cha Tôma Sitjar sinh năm 1866 ở Gerona, nước Tây Ban Nha. Ngài vào nhà tập Dòng Tên năm 1880, chịu chức linh mục năm 1900, dạy triết học từ năm 1923-1929. Sau đó ngài được bổ nhiệm làm viện trưởng học viện Gandia từ năm 1929 đến khi Dòng Tên bị chính quyền giải thể năm 1932.
 Khi phong trào cách mạng Tây Ban Nha đàn áp Dòng Tên vào năm 1932, các Giêsu Hữu bị trục xuất. Cha Sitjar và một số Giêsu Hữu khác từ chối ra đi. Ngài nói “Nếu họ giết chúng tôi, thì đó sẽ là điều Chúa muốn”. Ngày 25.07.1936, ngài bị bắt giam.
 Ngày hôm sau cha Constantine Carbonell, thầy Gelabert và thầy Raymond Grimaltos cũng bị bắt giam với cha Sitjar. Cha Sitjar bị xử tử tại đường Albaida gần Palma de Gandia vào ngày 19.08.1936. Bốn ngày sau 3 anh em Giêsu Hữu kia là Cha Constantine Carbonell Sempere sinh năm 1866 tại Alcoy, vào nhà tập Dòng Tên năm 1886, thụ phong linh mục năm 1901; Thầy Phêrô Gelabert Amer sinh năm 1887 tại Manacor thuộc đảo Majorca, vào Dòng Tên ở Gandia năm 1907; và Thầy Raymond Grimaltos Monllor sinh năm 1861 tại Valencia, vào Dòng Tên năm 1890, và phục vụ như người làm vườn trong suốt đời tu trì, cũng bị đem đi xử bắn tại khu rừng ôliu bên ngoài Gandia vào nửa đêm ngày 23.08.1936.
 Cha Phaolô Bori Puig sinh năm 1864 tại Tarragona, là linh mục giáo phận trước khi vào Dòng Tên năm 1891. Ngài giảng dạy và làm việc mục vụ giáo xứ. Năm 1918 ngài làm quản lý và sau đó làm thủ quỹ nhà tập tại Gandia. Ngài bị bắt và trước khi bị xử bắn, ngài nói với nhóm lính “Nhân danh Thiên Chúa Đấng mà vì Ngài các bạn sẽ giết tôi và Đấng mà tôi tin kính, tôi tha thứ cho các bạn”. Sau đó ngài ban phép lành cho họ trước khi bị xử bắn ngày 29.09.1936.
 Cha Dariô Hernández Morato sinh năm 1880 ở Valencia, vào Dòng năm 1896, thụ phong linh mục năm 1912. Ngài dạy học tại Saragossa College và làm mục vụ giáo xứ. Năm 1928 ngài được bổ nhiệm làm viện trưởng ở Valencia. Ngài bị bắt ngày 13.09 và bị xử tử ngày 29.09.1936.
 Thầy Vicentê Sales Genovés sinh năm 1881 ở Valencia, vào Dòng năm 1915. Ngài sống toàn bộ đời sống Giêsu Hữu ở Gandia. Ngài chịu tử đạo ngày 29.09.1936.
 Thầy Giuse Tarrats Comaposada sinh năm 1878 ở Manrêsa, vào Dòng năm 1895, vào Dòng năm 1895. Ngài phục vụ tại nhà hưu dưỡng ở Valencia. Ngài được phúc tử đạo ngày 28.09.1936.
 Cha Narciso Basté sinh năm 1866, vào Dòng năm 1890, thụ phong linh mục năm 1899. Năm 1902 ngài phục vụ ở Valencia cho đến khi bị bắt và được phúc tử đạo ngày 15.10.1936.
 Cha Alfredo Simón Colomina sinh năm 1977, vào Dòng năm 1895, thụ phong linh mục năm 1909. Sau đó ngài làm giám học trường học thánh Giuse ở Valencia và làm viện trưởng năm 1931. Ngài được phúc tử đạo ngày 29.11.1936;
 Cha Gioan Baotixita Ferreres Boluda sinh năm 1861, vào Dòng năm 1888, thụ phong linh mục năm 1890. Ngài là giáo sư dạy thần học luân lý và giáo luật tại học viện Dòng Tên ở Tortosa. Với tuổi già cộng với việc bị bắt và giam tù, ngài bị đột quỵ và qua đời trong tù ngày 19.12.1936.
 Ngày 11.03.2001, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước cho 233 vị tử vị đạo người Tây Ban Nha, trong đó có cha Tôma Sitjar và 10 người bạn Giêsu Hữu.

(Theo Phụng Vụ Dòng Tên)

FacebookTwitterEmailLinePrintFriendly

Lời Chúa Mỗi Ngày 🌸

Các bản văn Kinh Thánh được dùng theo bản dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ
Xin chân thành cám ơn.

Viết một bình luận