Generic filters
Exact matches only
Filter by content type
Comments
Attachments

Ý Cầu nguyện: Cầu nguyện Cho tiếng kêu của trái đất (tháng 9)

Đức Mẹ Mân Côi (7/10)

FacebookTwitterEmailLinePrintFriendly

Không ai biết chính xác Kinh Mân Côi đã được các Ki-tô hữu sử dụng để cầu nguyện từ khi nào. Chỉ biết rằng, các tín hữu Công giáo đã thực hành cách cầu nguyện này ngay từ hồi rất xa xưa. Có truyền thống cho rằng, vào năm 1208, Thánh Đa-minh đã được đích thân Đức Mẹ hiện ra chỉ cho cách cầu nguyện đó. Và người phổ biến truyền thống trên về Thánh Đa-minh chính là Alanus de Rupe (1428 – 1475) – một Tu sĩ Dòng Đa-minh. Ông đã thực hiện việc phổ biến này từ năm 1468. Lẽ dĩ nhiên, nhiều nhà nghiên cứu không tin vào truyền thống do Alanus de Rupe phổ biến. Xét về hình thức, cách cầu nguyện bằng việc lần Chuỗi Mân Côi đã thay đổi khá nhiều trong suốt lịch sử. Và cách cầu nguyện bằng Tràng Hạt Mân-côi theo hình thức mà các Tín hữu Công Giáo ngày nay đang thực hành, trừ Năm Sự Sáng mà Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã bổ sung sau này, đã được bắt đầu từ Mùa Vọng năm 1409 bởi Dominicus von Preußen – Đan Sĩ Dòng Bru-nô. Hình thức này đã được phổ biến mau chóng ngay trong thế kỷ thứ XV. Những người phổ biến cách cầu nguyện này, không ai khác ngoài các Tu Sĩ Dòng Thánh Đa-minh và sau này thêm các Tu Sĩ Dòng Tên nữa. Tuy nhiên, dù gắn chặt với Tràng Hạt Mân Côi, nhưng Đại Lễ Kính Đức Mẹ Mân Côi lại có một lịch sử và một ý nghĩa riêng.

1. Nguồn gốc và việc phổ biến Đại Lễ Đức Mẹ Mân-côi:

Lịch sử của ngày Đại Lễ này liên quan tới một cuộc chiến giữa quân đội của các nước theo Ki-tô giáo với quân đội Thổ-nhĩ-kỳ theo Hồi giáo. Dưới thời cai trị của nhà Ottoman, quân đội, đặc biệt là hải quân của Thổ-nhĩ-kỳ đã trở nên rất hùng mạnh, và được coi là hùng mạnh nhất Châu Âu hồi ấy. Hầu như trong suốt thế kỷ XV, hải quân của Thổ-nhĩ-kỳ không hề nếm trải bất cứ một trận thua nào. Sự hùng mạnh này vẫn được quân đội Thổ tiếp tục duy trì cho tới mãi cuối thế kỷ XVI. Vào mùa Thu năm 1571, được sự hỗ trợ của hai vị tướng là Chulouk Bey và Uluj Ali, Đô đốc Muezzinzade Ali Pasha đã mang 13.000 thủy binh cùng 34.000 thủy quân lục chiến, với nhiều tàu thuyền và chiến hạm, định vượt Địa Trung Hải để đánh thẳng vào Rô-ma. Biết tin quân đội Thổ-nhĩ-kỳ đang kéo đến, Đức Giáo Hoàng Pi-ô V (1566 – 1572) đã tức tốc thành lập quân đội liên minh để chống lại quân Thổ-nhĩ-kỳ. Quân đội đồng minh bao gồm nước Cộng hòa Venezia, vương quốc Tây-ban-nha (lúc đó bao gồm cả Napoli, Sicilia và Sardinia), Quốc gia Giáo hoàng, nước Cộng hòa Genova, Công quốc Savoie, và một số đồng minh khác. Tuy nhiên, dù quân đội của mình được triệu tập từ nhiều quốc gia, nhưng Đức Pi-ô thứ V vẫn ý thức rất rõ về sự yếu kém của quân mình trước quân Thổ. Vì thế, vị Giáo Hoàng xuất thân từ Dòng Đa-minh này đã kêu gọi các tín hữu tha thiết cầu nguyện bằng Kinh Mân-côi để xin Thiên Chúa phù hộ cho các chiến sĩ Ki-tô giáo tham gia trận chiến này.

Quân đội đồng minh đã tiến ra chặn đường quân Thổ-nhĩ-kỳ. Vào ngày mồng 07 tháng 10 năm 1571, bai bên đã chạm trán nhau tại Lepanto, phía Bắc vịnh Patras, Địa Trung Hải, phía Tây Hy Lạp, và cuộc chiến đã diễn ra với tất cả sự ác liệt của nó. Tuy nhiên, chỉ 5 tiếng đồng hồ sau thì quân đồng minh Ki-tô giáo đã toàn thắng quân Thổ-nhĩ-kỳ Hồi giáo. Trận chiến đã kết thúc vào lúc khoảng 4 giờ chiều. Quân đồng minh đã tiêu diệt được khoảng 210 chiến hạm của quân Thổ, trong khi quân Thổ chỉ phá hủy được khoảng 20 chiếc thuyền của quân đồng minh. Chiến thắng này mang lại quyền kiểm soát Địa Trung Hải cho quân đồng minh, bảo vệ Rô-ma khỏi nguy cơ xâm lược, đồng thời ngăn cản bước tiến của đế chế Ottoman vào sâu nội địa Châu Âu.

Đó là một sự chiến thắng ngoài sự mong đợi của quân đội Ki-tô giáo trên quân đội mạnh hơn rất nhiều lần của người Thổ-nhĩ-kỳ theo Hồi giáo. Vì thế, sự thành công của trận đánh này được tuyên bố là nhờ lời bầu cử của Đức Maria. Sau đó, Đức Pi-ô V đã tuyên bố ngày mồng 07 tháng 10, tức ngày quân đồng mình đánh thắng quân Thổ tại Lepanto, là ngày “Tưởng Nhớ Đức Trinh Nữ Toàn Thắng“. Một năm sau đó, khi Đức Thánh Cha Pi-ô V băng hà, và Đức Thánh Cha Grê-gô-ri-ô XIII được bầu lên kế nhiệm, vị Tân Giáo Hoàng này đã tái nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc Lần Chuỗi Mân Côi. Và vì thế, Ngài đã thiết lập riêng cho Dòng Đa-minh cũng như cho các Huynh Đoàn Rất Thánh Mân Côi và cho các Nhà Thờ mà trong đó Đức Mẹ Rất Thánh Mân-côi được tôn kính, một “Đại Lễ Mân-côi của Đức Trinh Nữ Rất Thánh“, và Đại Lễ này được cử hành vào ngày Chúa Nhật đầu tiên của tháng Mười.

Sau đó, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày chiến thắng tại vịnh Lepanto, nữ hoàng Maria Anna của Tây-ban-nha lúc đó đã xin Đức Thánh Cha Clê-men-tê X cho phép được cử hành Đại Lễ Mân-côi của Đức Trinh Nữ Rất Thánh tại đất nước của bà. Lẽ dĩ nhiên, Đức Thánh Cha Clê-men-tê X đã không khước từ ý nguyện này của nữ hoàng Maria Anna.

Vào đầu thế kỷ XVIII, quân đội Thổ-nhĩ-kỳ lại xâm lược Âu Châu một lần nữa. Đức Giáo Hoàng hồi đó là Đức Clê-men-tê XI cũng kêu gọi các tín hữu Công giáo lần chuỗi Mân-cô để cầu xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa cho các chiến sĩ Ki-tô giáo trong khi họ tham gia chiến đấu chống lại quân đội Thổ-nhĩ-kỳ Hồi giáo. Vào ngày mồng 05 tháng 08 năm 1716, quân đội Ki-tô giáo với lực lượng rất mỏng, đã chiến thắng vẻ vang trước quân đội Thổ-nhĩ-kỳ Hồi giáo hùng mạnh hơn gấp nhiều lần. Trận thắng này diễn ra trên đất Hung-ga-ri. Sau trận thắng ngoài sức mong đợi đó của quân đội Ki-tô giáo, Đức Thánh Cha Clê-men-tê XI đã tuyên bố rằng, nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ Mân-côi mà người Ki-tô giáo mới có được cuộc chiến thắng này. Vì thế, ngay sau đó Ngài đã truyền phải cử hành Đại Lễ Kính Đức Mẹ Mân Côi trên khắp Giáo hội hoàn cầu.

Sau này, Đức Thánh Cha Pi-ô X đã ra lệnh sáp nhập “Lễ Kính Nhớ Đức Trinh Nữ Toàn Thắng” và “Đại Lễ Mân-côi của Đức Trinh Nữ Rất Thánh” lại làm một với nhau, và cử hành vào ngày mồng 07 tháng 10, với tên gọi là Đại Lễ Mân-côi của Đức Trinh Nữ Rất Thánh.

Trong cuộc cải tổ Phụng Vụ do Đức Thánh Cha Phao-lô VI thực hiện vào những năm 1960, Đại Lễ nêu trên được đổi tên thành “Đại Lễ Đức Mẹ Mân-côi“, và được cử hành vào ngày mồng 07 tháng 10 hay vào ngày Chúa Nhật gần ngày mồng 07 tháng 10 nhất. Kể từ đó, Ngày Đại Lễ này không còn nhắm tới Kinh Mân-cô như là đối tượng của việc cử hành nữa, và càng không nhắm tới chuyện coi Kinh Mân-côi như là “vũ khí chiến thắng” nữa, nhưng nhắm tới việc tôn vinh Đức Maria, người đã cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể, tức Đấng Chiến Thắng tội lỗi và tử thần.

2.Sứ điệp thiêng liêng của Đại Lễ Đức Mẹ Mân-côi:

Trong Phụng Vụ của Đại Lễ Đức Mẹ Mân-côi, mầu nhiệm ơn cứu độ dành cho con người được nhấn mạnh theo một cách thức để nó gần gũi hơn với dân chúng, như người ta thấy được trong khi cầu nguyện bằng Kinh Mân-cô với năm Sự Vui, Sự Sáng, Sự Thương và Sự Mừng. Trong Ca Nhập Lễ, Giáo hội Kính Mừng Đức Maria đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Mẹ có phúc hơn tất cả mọi phụ nữ, và Chúa Giê-su chính là hoa trái phát sinh từ thân thể Mẹ. Hoa trái từ thân thể Đức Maria, cụ thể là Con Thiên Chúa Nhập Thể, chính là Mầu Nhiệm. Như vậy, “Mầu Nhiệm” là một “Ai Đó” chứ không phải là một “cái gì đó“. Trong “Mầu Nhiệm” này, con đường cứu độ cũng đã được vạch ra. Con đường này khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể, xuyên qua cuộc khổ hình Thập Giá và đi tới Phục Sinh. Lời Nguyện Nhập Lễ của Đại Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta tới điều đó, và dẫn chúng ta tới việc lắng nghe Lời Chúa. Bài Đọc I (Cv 1,12-14) giới thiệu cho chúng ta thấy hạt nhân của Giáo hội nguyên thủy: các Tông Đồ, các phụ nữ, và những người anh em của Chúa Giê-su cùng quy tụ lại với nhau bên cạnh Đức Maria, Thân Mẫu Chúa Giê-su, trong lời cầu nguyện đồng tâm nhất trí. Cộng đoàn Đức Tin chính là sự tiếp nối của mầu nhiệm Chúa Ki-tô sau khi Ngài thăng thiên; là sự tiếp nối của điều mà nó đã có ngay từ đầu công cuộc loan báo Tin Mừng (xc. Bài Tin Mừng của Đại Lễ, Lc 1,26-38). Và với tư cách là những chi thể của Chúa Ki-tô, tất cả chúng ta đều đã được nhấn chìm vào trong mầu nhiệm ấy, bằng cách là chúng ta hiệp thông với Chúa Ki-tô trong cuộc khổ hình của Ngài. Với tư cách là những chứng nhân cũng như là những môn đệ của Ngài, chúng ta được phép trông đợi rằng, vào một ngày kia chúng ta cũng sẽ được tham dự hoàn toàn vào với vinh quang vĩnh cửu của Ngài, như được trình bày trong lời nguyện kết của Đại Lễ này.

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
Nguồn: SIMONHOADALAT

Đọc Thêm:

Lc 1,26-38

Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi mân côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Ðau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết:” Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên “chiều kích Thánh Mẫu” của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng “Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.

MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ÐỘ

Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Ðức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời xin vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời xin vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng xin vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất ,khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại,là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.

“CÁC CON ÐỪNG SỢ , THẦY ÐÃ THẮNG THẾ GIAN”( Ga 16,33 )

Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại:” sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế “(Ga 14,18).Chúa là con của Mẹ Maria, nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Ðức giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết:” Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng“. Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Ðức, Fatima, Labouret, Nam Tư , La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ:” phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi mân côi “. Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời . Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần. “Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ.

LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI

Lễ mân côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Ðức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên,đó chỉ là lý do phụ. Ðiều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương an bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Ðức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Ðấng vô nhiễm nguyên tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào ? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa ? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa ? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu:” Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”.

Lễ mân côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.

Chuỗi mân côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Ðạo tình thương của Chúa Giêsu .

“Lạy Chúa. xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá, và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh”( Lời nguyện nhập lễ, lễ Ðức Mẹ Mân Côi ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Nguồn: SIMONHOADALAT

FacebookTwitterEmailLinePrintFriendly

Lời Chúa Mỗi Ngày 🌸

Các bản văn Kinh Thánh được dùng theo bản dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ
Xin chân thành cám ơn.

Viết một bình luận